Tạo hình bờ mông hiện đại bằng kỹ thuật Lipofiller hệ thống hóa

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

Lázaro Cárdenas-Camarena, MDa,b,c,d,* Héctor Durán, MDa,b,c,d

TỪ KHÓA

• Ghép mỡ • Ghép mỡ mông • Nâng mông kiểu Brazil • Làm đầy mông • Kỹ thuật

ĐIỂM QUAN TRỌNG

• Đánh giá khách quan tình trạng bệnh nhân và xác định đúng khu vực cần điều trị là chìa khóa để có thể đạ được kết quả tốt.

• Báo cáo này mô tả các bước và kỹ thuật cho phép chúng tôi hút mỡ và xử lý chúng đúng cách, giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm mô ghép. Đồng thời báo cáo kỹ thuật filler mỡ vào các khu vực cần thiết.

• Xác định và lập kế hoạch cho những điểm thiết yếu trong quá trình điều trị là chìa khóa đề đạt được kết quả mỹ mãn.

• Một vòng mông đẹp không chỉ đơn thuần là thể tích của chúng lớn mà còn bởi sự cân đối của chúng với các cấu trúc xung quanh.

GIỚI THIỆU

Đế có được đường bờ mông như mong muốn, ghép mỡ hoặc tăng thể tích đơn thuần là không đủ. Những tiến bộ về nghiên cứu hình thái học, tâm lý học và giải phẫu đã cho thấy việc tạo hình bờ mông phức tạp hơn thế nhiều. Để đạt được kết quả tốt đòi hỏi những hiểu biết sâu về giải phẫu, về mối tương quan giữa vùng mông và các vùng liên quan. Hình dạng mông thực sự quan trọng hơn kích thước của chúng. Hình dạng này phụ thuộc vào mối quan hệ giữa eo,

hông và chân. Tuy nhiên, ngày nay bệnh nhân tới với chúng ta và thường chỉ yêu cầu tăng kích thước thay vì các thủ thuật khác, và chúng ta nhận ra rằng sau khi đã nâng mông, các khiếm khuyết vốn có lại lộ ra rõ ràng hơn. Từ đó, các Bác sĩ nên suy nghĩ nghiêm túc tới việc tạo hình bờ mông thay vì chỉ biết tăng kích thước vòng. Cũng như đối với ngực, thể tích thích hợp với hình dáng đẹp là mục tiêu chính của các phẫu thuật vùng mông. Chúng ta nên loại bỏ suy nghĩ chỉ cần tăng

thể tích là sẽ có một vòng mông đẹp. Tương tự như vậy, chúng ta không thể đạt được những yêu cầu về tính thẩm mỹ vùng nếu không đưa vùng mông vào mối tương quan với các thành phần lân cận: vùng thắt lưng, vùng eo và chân.

Những kiến thức này được đúc kết từ các nghiên cứu quan trọng về nâng mông kiểu Brazil. Đây là thuật ngữ đầu tiên được sử dụng do phần lớn các nghiên cứu đều tới từ nước này. Hình dạng khung mông, ví dụ như tròn “A” hay vuông “V” là những khái niệm mà chúng ta cần nắm được để có thể hiếu cách tạo ra một vòng mông đẹp.

không chỉ là về mặt thẩm mỹ mà còn liên quan đến đặc trưng giải phẫu của mỗi chủng người, mỗi vùng miền. Đối với những bệnh nhân gốc Á, da trắng hoặc những bệnh nhân BMI < 25 kg/m2 thì có thể tiệm cận tới hình thể mông tương đối đầy đặn, có tính thẩm mỹ cao, thể tích mông tập trung ở vùng trung tâm và tỉ số eo/hông rơi vào khoảng 0.65-0.7. Tuy nhiên, ở những người Mỹ Latin, Mỹ gốc Phi, chủ yếu BMI > 25 thì nên đưa tỉ số eo/hông xuống dưới 0.65 vì lúc này vùng mông và hông sẽ hình thành một khối liên tục, rất lớn, tròn và dễ thấy ở trên vùng mông. Tuy nhiên, nhiều người lại thích vẻ bề ngoài trông ‘thể thao’ hơn và họ không thích vùng mông ở hai bên hình thành nên một đường cong (khu- ng mông tròn), họ muốn có vùng bên vừa đủ, thậm chí nhiều người còn mong muốn sau phẫu thuật họ có thể nhìn thấy những bó cơ căng mạc đùi gồ lên dưới da. (Hình 1-3,

MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ

Cũng như các cuộc phẫu thuật khác, lập kế hoạch chi tiết luôn là điều cốt yếu. Chúng ta phải biết những gì bệnh nhân cần, mong đợi để từ đó hiểu con mắt thẩm mỹ của họ đang hướng tới điều gì. Từ đó kết hợp với những đánh giá nhận định của chúng ta để đi đến một kế hoạch hoàn chỉnh,

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

Hình. 1. Bệnh nhân nữ 30 tuôi người Mỹ Latin với hình ảnh trước phẫu thuật và quá trình lên kế hoạch phẫu thuật. (1) Bụng: Có lượng mỡ dồi dào, không có sẹo, chất lượng da còn tốt. (2) Đối xứng: Nửa thân bên trái đầy đặn hơn bên phải. Mông trái thì lại dẹt hơn nhưng bè hơn mông phải. (3) Điểm khác thường: Có một chút bất thường ở góc phần tư dưới (góc 6h). (4) Đường rạch: là các điểm giao cắt (để hút/tiêm mỡ). (5) Tỉ lệ eo/hông: 0.75. Cần hút bớt 1 phần mỡ ở eo và tiêm vào những chỗ thiếu hụt ở hông tại các vị trí có đường kẻ ngang song với đường ngang đi qua giữa mông: (a) đường ngang ở trên tương đương với mức xương sườn 12. Cần hút mỡ từ vùng đó hướng về phía đường nách sau. (b) Khung mông và điểm nhô ra nhiều nhất. Đây là khung vuông, điểm nhô ra nhiều nhất cần ghép mỡ để cải thiện tỉ lệ eo/hông. (6) Chân và nếp lằn mông: Nếp lằn mông kéo dài quá đường thẳng đi qua tâm điểm mỗi bên mông, nên cần ghép mỡ để nâng mông và giảm chiều dài nếp lằn này. (7) Các điểm giải phẫu cần đánh dấu và độ dày của vạt: Độ dày đủ, nguy cơ xuất hiện các bất thường là thấp. (8) Vùng chuyển tiếp: Mềm mại.

Hình. 2. Hình ảnh trong khi phầu thuật của bệnh nhân nữ 30 tuổi ở tư thế nằm nghiêng. Các điểm đánh dấu cho thấy phần mỡ thừa cần phải hút (phần ngoài các đường đen) để đạt đươc muc tiêu thẩm mỹ.

CHUẨN BỊ TRƯỚC PHẨU THUẬT

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống CHUẨN BỊ TRƯỚC PHẨU THUẬT theo đó, cải thiện kết quả lâu dài (Uình

theo đó, cải thiện kết quả lâu dài (Hình 4).

ĐÁNH DẤU VÙNG PHẨU THUẬT

lat ca bẹnh nhan deu phai được kiểm tra công thức máu, thời gian máu đông, máu chảy, PT trước phẫu thuật. Một số nghiên cứu có đánh giá cả nồng độ Glucose và một số xét nghiệm chuyên biệt khác tùy theo bệnh lý kết hợp nếu có. Tất cả các chỉ định xét nghiệm đều phải được thống nhất với bệnh nhân trước, và Bác sĩ cũng đồng thời yêu cầu họ ngừng hút thuốc, ngừng sử dụng aspirin và thực phẩm chức năng trước phẫu thuật khoảng 2-3 tuần. Cũng nên xem xét việc bổ sung sắt và vit K trước phẫu thuật, bệnh nhân và gia đình nên được thông báo về các rủi ro có thể gặp phải, sau đó ký kết vào bản cam kết đồng thuận thực hiện phẫu thuật. Để có thể tạo hình bờ mông tốt, Bác sĩ không những phải quan sát các đặc điểm giiar phẫu mà còn phải nắm được mong muốn của bệnh nhân cũng như khả năng có thể thực hiện để đưa ra phương án phù hợp. Quá trình này bao gồm, phân tích lượng mỡ dưa thừa và quan sát tương quan vùng mông với các cấu trúc xung quanh, từ đó đưa ra đường bờ mông phù hợp. Bằng cách này, dựa trên phân tích và hệ thống hóa lại, chúng ta có thể thực hiện một chuỗi các thủ thuật filler mỡ để đưa ra kết quả cuối cùng tốt hơn. Nếu thực hiện hút mỡ và tiêm mỡ một cách có hệ thống, thì chỉ với những dụng cụ sẵn có, chúng ta có thể đạt được những kết quả tốt hơn những quy trình cổ điển và

ĐÁNH DẤU VÙNG PHẪU THUẬT Bệnh nhân đứng quay lưng về phía Bác sĩ. Bác sĩ đánh dấu đường giữa cơ thể, và sau đó là ha đường chéo đi từ nách hai bên đến điểm trên cùng của nếp liên mông Đường này phân định các vùng trong/ngoài, cụ thế là vùng ngoài là vùng có thể can thiệp hút/tiêm mỡ: Sau đó, vẽ một đường ngang nối cả hai khuỷu tay (ngang sườn 12). Đường này thuộc vùng eo cũng là vùng cần hút mỡ để tạo một đường rộng dần liền mạch từ trên xuống dưới, chuyền dạng các khung mông khác sang khung hình chữ A. Các gai chậu phía sau cũng cần được đánh dấu, sau đó kẻ hai đường thẳng song đi qua tâm điểm của mỗi bên mông, kéo dài lên trên cắt đường ngang qua hông và eo tại các giao điểm màu đỏ (Hình 1). Cuối cùng, kho- anh hai đường tròn tương ứng với chu vi mông hai bên, để xác định sự bất đối xứng hoặc chênh lệch giữa vòng mông hai bên. Khi đánh dấu chú ý nên đánh hai vòng, 1 vòng là vòng mông ban đầu, vòng còn lại là vòng mông nhỏ hơn khi chúng ta dùng tay ấn vào tâm điểm của vùng mông đó (đường tròn này chính là khu vực chúng ta cần làm đầy bằng tiêm mỡ). Ngoài ra, Bác sĩ cũng cần kiểm tra thêm các vùng thiếu hụt mỡ cần bổ sung ở bất kỳ vị trí nào. Nên nhờ rằng vùng nhô ra ở mông

PHƯƠNG PHÁP PHẨU THUẬT

nhiều nhất phải là vị trí ngang với xương mu. Điều quan trọng nữa là phải xác minh xem nếp lằn mông có dài quá đường thẳng đi qua giữa mông hay không. Nếu có thì phải đánh dấu coi như một vùng sẽ tiêm mỡ để ‘rút ngắn’ đường đó lại, tăng tính thẩm mỹ vùng mông. Nếu có sự bất đối xứng, bất thường hoặc các điểm đặc biệt khác thì đều phải đánh dấu lại

CHUẨN BỊ BỆNH NHÂN

Chúng ta bắt đầu hút mỡ bụng trước để chuẩn bị đủ lượng mô ghép cho phẫu thuật ghép mỡ Thực hiện rạch hai đường, một ỏ vùng bẹn và một ở quanh rốn. Cũng có thể rạch một đường ở dưới nếp lằn vú để tiếp cận khu vực mỡ ỏ vùng bụng trên. Trước khi bắt đầu hút, áp dụng kỹ thuật làm ướt mô mỡ, sử dụng hóa chất làm phồng (tumescent) bản chất là dung dịch đẳng trương (khoảng 3L) trộn cùng 3 ống adrenaline (theo công thức Hunsted) để ‘bóc tách’ lượng mỡ cần hút. Ở đây chúng tôi không sử dụng lidocaine vì nó không cần thiết khi bệnh nhân đã được gây mê hoặc tê ngoài màng cứng. Quá trình hút mỡ được thực hiện bằng các canuyn kích thước 3-4 mm với bơm hút thể tích 60mL. Độ sâu của canuyn khi đưa vào khu vực hút phụ thuộc vào kết quả của test véo da (xác định độ dày lớp mỡ và mức độ đồng đều của mô mỡ dưới da trước và sau hút mỡ). Mô mỡ hút được trữ trong Một bình kín. Sau đó, bệnh nhân được chuyển tư thế nằm nghiêng trái và nghiêng phải để tiếp tục hút mỡ vùng mông bên, và nằm sấp để hút mỡ vùng thắt lưng và vùng mông. Để chuẩn bị mô ghép, nên gạn lọc và làm sạch thủ công, Bác sĩ nên tỉ mỉ trong khâu này nhằm loại bỏ toàn bộ phần mô liên kết hút ra. Sử dụng 300 mg Clindamycin trộn cùng với lượng mỡ đã chuẩn bị, đưa mỡ vào vùng đã đánh dấu từ trước, theo nhiều

Trước phẫu thuật bệnh nhân đứng để đánh dấu các điểm giải phẫu quan trọng. Sau đó họ được nằm trên bàn phẫu thuật có rải một tấm vô trùng trước đó để có thể thay đối vị trí của bệnh nhân nếu muốn. Bác sĩ vô cảm có thể gây mê hoặc tê ngoài cứng, sau đó đặt sonde Foley. Hãy luôn chú ý nhiệt độ cơ thể bệnh nhân vì những lo ngại về vấn đề hạ thân nhiệt trong quá trình phẫu thuật. Vì là phẫu thuật can thiệp nhiều vùng cơ thể nên bệnh nhân buộc phải cởi bỏ toàn bộ quần áo, trong khi đó các tấm săng vải không đủ khả năng để giữ ấm cho họ trong phòng phẩu thuật, chưa kể chúng rất công kênh và có thể gây cản trở trong quá trình làm phẫu thuật. Vì thế nên làm nóng bệnh nhân trước phẩu thuật khoảng 1h bằng nước ấm hoặc truyền dịch đã ủ ấm. Nếu có thể, sử dụng các đệm nước nóng/ ấm cho bệnh nhân nằm trước phẫu thuật là liệu pháp rất hữu ích để tránh hạ thân nhiệt.

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

và độ dày lớp mỡ 8. Vùng chuyển tiếp Vùng bụng

hướng và tại nhiều vị trí khác nhau (mô tả chi tiết trong bài báo này), nhưng tuyệt đối tránh đưa canuyn quá sâu xuống dưới lớp cơ. Thực chất thao tác tiêm mỡ tương tự như thao tác thực hiện khi hút mỡ. Sau khi đã kiểm tra hai bên cân đối, lớp mỡ dưới da được phân bố đều thì đặt dẫn lưu chiều dài khoảng 3-5 mm đặt ngay đầu đường rạch và lưu trong 5-7 ngày (Hình 5-11).

Vùng bụng là khu vực quan trọng vì chúng là nơi có khối lượng và chất lượng mô mỡ tốt nhất. Nếu vùng bụng chưa có can thiết gì trước đó, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm khu sử dụng mỡ ở vùng này. Tính cân đối

CHIÊN LƯỢC

Để thực hiện thủ thuật này, theo kế hoạch đã định, chúng tôi áp dụng liệu pháp hút mỡ hệ thống hóa. Có 8 điểm quan trọng trong hút mỡ hệ thống, cho phép chúng tôi tính đến tất cả các yếu tố trước, trong và sau khi phẫu thuật để có được một kết quả như ý. Chúng tôi sẽ chụp ảnh bệnh nhân trước khi lập kế hoạch và đánh giá, sử dụng chúng trong ngày phẫu thuật, để phòng tránh các thiếu sót không đáng có. 8 điểm quan trọng này bao gồm:

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng vùng mông là khu vực rất ít khi đạt được sự cân đối tự nhiên. Điều quan trọng đối với người Bác sĩ là phải làm sao chỉ ra được điều này cho bệnh nhân đồng thời lập kế hoạch để giải quyết sự bất đối đó. Tình trạng này thường xảy ra do cong vẹo cột sống hoặc độ dài chân hai bên không bằng nhau dẫn tới lệch hông. Trong quá trình kiểm tra, Bác sĩ phẫu thuật có thể quan sát thấy hai bên gai chậu không cân xứng và đây là minh chứng cho một vùng mông không cân. Khung mông cũng thường không cân. Bằng cách đo kích thước cơ mông lớn tới nếp lằn mông ở hai bên, có thể dễ dàng xác định sự bất đối này. Để đánh giá một cách toàn diện, nên đo chiều cao, chiều rộng và hình chiếu của mỗi bên mông và ghi lại. Những khác biệt đáng kể cần được lưu ý vì kể cả có phẫu thuật cũng khó có thể đạt được sự cân đối hoàn hảo!.

1. Vùng bụng 2. Tính cân đối 3. Những điểm bất thường 4. Đường rạch 5. Tỉ số hông/eo a. Vùng phía sau ngang vị trí xương sườn 12 hoặc khuỷu tay b.Khung mông và điểm nhô ra nhiều nhất 6. Nếp lằn mông và vùng đùi sau 7.Mốc giải phẫu quan trong

a. Vùng phía sau ngang vị trí xương sườn 12 hoặc khuỷu tay

b.Khung mông và điểm nhô ra nhiều nhất

7.Mốc giải phẫu quan trọng

Hình. 4. Hình ảnh tiền và hậu phẫu của một phụ nữ 28 tuổi, mong muốn giảm vùng eo và tăng kích thước vòng mông. 3 tháng sau phẫu thuật không ghi nhận biến chứng bất thường, vùng hông giữ nguyên kích thước. Vì phần lưng trên của bệnh nhân này không có bất thường đáng kể nên chúng tôi không hút mỡ vùng đó.

Hình. 5. Bệnh nhân nữ 20 tuổi được thực hiện hút mỡ eo để nâng mông. Vùng hông cũng được cải thiện phần lớn sau chuyển mỡ, tạo ra hình thể đẹp với đường chuyển tiếp liên tục.

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

Hình. 6. Bệnh nhân nữ 28 tuổi đã mang thai 2 lần mong muốn nâng mông và tạo hình bờ mông. Chất lượng da của bệnh nhân này tương đối tốt nên chúng tôi đã thực hiện hút mỡ eo và thêm vào mỗi bên mông 1000 mL mỡ. Sau 3 tháng thấy được kết quả như hình bên phải, tình trạng bất đối xứng hai bên hông cũng được giải quyết.

Hình. 7. Một phụ nữ 34 tuổi muốn thực hiện nâng mông và tạo hình bờ mông. Bác sĩ đã thực hiện hút mỡ éo, ghép mỡ mông và bảo tồn phần mỡ ở lưng trên. Sau phẫu thuật cho kết quả tốt.

Hình. 8. Bệnh nhân nữ 28 tuổi. Với đường bờ mông đẹp hơn sau khi được ghép mỡ.

Hình. 9. Bệnh nhân nữ 22 tuổi được thực hiện hút 1250 mL mỡ và ghép vào mỗi bên mông 300mL mỡ. Phân hông được bảo toàn.

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

Hình. 10. Hình ảnh một bệnh nhân 36 tuổi được tiêm 350mL mỡ mỗi bên mông và 150mL mỡ mỗi bên hông.

Hình. 11. Bệnh nhân nữ 26 tuổi, với tình trạng teo hai bên hông và vùng mông không cân đối, hình thành nên khung mông chữ V. Sau hút mỡ thu được 3250 mL, tiêm mỗi bên mông 425mL và 275mL bên hông phải, 375mL bên hông trái.

Những điểm bất thường

nơi chứa nhiều mạch máu lớn, làm tăng nguy cơ huyết tắc mỡ. Như vậy. đường mổ luôn phải tạo điều kiện cho canuyn đi lên trên, ra ngoài (đi nông) trên một mặt phẳng song bàn mố.

Đây là vấn đề nan giải vì thường bệnh nhân nào cũng có. Ví dụ như sẹo co kéo sau tiêm bắp và di chứng sau nhiễm khuẩn tạo ra những chỗ lồi lõm không thẩm mỹ. Thông thường, phương pháp để xử lý những bất thường này là xử lý vùng da tương ứng (căng da) và tiêm mỡ làm đầy.

Tỉ số eo/hông

Đường rạch

Nhà tâm lý học Singh đã khẳng định rằng mối tương quan giữa eo và hông quyết định sự hấp dẫn về mặt thể chất của người phụ nữ. Vì vậy chúng ta cần có sự quan tâm đúng mức tới chúng. Dựa trên đặc điểm của bệnh nhân, mong muốn của họ và hoàn cảnh thực tế, các Bác sĩ nên đưa ra quyết định chỉnh sửa vùng mông sao cho phù hợp, với mục tiêu đạt tỉ lệ eo/hông khoảng 0.7 (hoặc 0.65 ở những người muốn có vòng 3 lớn). Do đó, trong quá trình phẫu thuật, chúng tôi luôn phải tính toán để kết quả sau khi mỡ ghép đã được hấp thu Tôi đa thì tỉ lệ này tiệm cận tới con số lý tưởng. Nên nhớ vùng mông là vùng mỡ bị hấp thu nhiều còn vùng eo thì rất ít vì khung sườn ngay đó sẽ hạn chế khả năng tái phân bố cũng như hấp thu mỡ.

Lập kê hoạch vần luôn là khâu quan trọng, chúng sẽ bao gồm cả khâu gây tê tại chỗ và thực hiện đường rạch để đưa canuyn vào hút mỡ. Tùy thuộc vào chiều cao bệnh nhân, có thể phải rạch tương đối nhiều vị trí nếu canuyn không tới được các vùng mong muốn. Các đường rạch thường sử dụng: đường dọc giữa ở phía trên nếp liên mông (tiếp cận vùng tam giác cùng). Hai đường ở phía bên, đúng vị trí cao nhất của mông mỗi bên để tiếp cận vùng mông trên. Đường rạch phía Bên, ngay dưới mào chậu để tiếp cận các vùng mỡ mặt ngoài đùi. Đường rạch ngay phía dưới nếp lằn mông (khuyến cáo không nên rạch quá ½ giữa) nhằm tiếp cận tới vùng nhô cao nhất của mông, và các khu vực chuyển tiếp. Tuy nhiên, từ đường rạch dưới nếp lẵn mông, tuyệt đối không được đưa canuyn tiếp cận để tiêm mỡ vào vùng mỡ sâu ở giữa mông vì rất có khả năng phần mỡ tiêm vào sẽ bị thoát vào khu vực cơ và tổ chức dưới cơ –

Vùng lưng ngang vị trí xương Sườn 12

Khu vực lưng là một trong những thành phần quan trọng, quyết định tính thẩm mỹ vùng mông. Chúng ta thường phải hút mỡ vùng lưng trên, nhưng vẫn phải

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

Khung mông là một trong những yếu tố quan trọng trong thẩm mỹ mông. Đường bờ mông, bao gồm các cơ và cấu trúc xương thành bên (xương chậu và mấu chuyển lớn) với lượng mô mỡ phía dưới chúng, tạo thành một hình khối nhất định (tròn, vuông, A, V). Các Bác sĩ phải nắm được cách tạo khung mông và chuyển dạng khung mông để tạo hình dáng hài hòa và tỉ lệ eo/hông hợp lý. Nói chung, cách đơn giản nhất để tạo hình nó là để bệnh nhân nằm ở tư thế nghiêng. Ở tư thế nằm sấp/ngửa thì chỉnh hình khung sẽ khó hơn vì các thành phần khung mông đều bị thay đổi vị trí/hình dạng. Filler thường được thực hiện với đường vào từ điểm cao nhất vùng mông hoặc từ nếp lằn mông. Điểm hình chiếu (điểm mông nhô ra ngoài nhiều nhất) là chìa khóa thẩm mỹ vùng mông. Bản thân nó là điểm có ảnh hưởng đến tình thẩm mỹ của khung mông. Không giống như việc tạo hình khung mông (bằng cách hút mỡ), việc tạo hình điểm hình chiếu chủ yếu bằng cách tiêm thêm mỡ lên khu vực đó. Khi tiêm nên để bệnh nhân ở tư thế nằm nghiêng hoặc sấp để còn đánh giá được vùng chuyển tiếp.

để vùng eo là vùng có đường kính nhỏ nhất. Có 3 cách để xác định vị trí vòng eo. Đầu tiên là tính dọc theo vị trí xương sườn 12, thứ hai là đoạn thân mình ngang với khuỷu tay khi bệnh nhân ở tư thế cúi mặt, thứ ba là điểm gập người khi bệnh nhân cúi. Nếu chúng ta muốn tiếp cận với khu vực này với đường vào kín đáo, có thể rạch một đường từ trên nách, ngay vị trí đường nách sau. Cách khác là có thể rạch trực tiếp từ vùng lưng sau nhưng trúng ngay vị trí dây áo ngực, để có thể giấu chúng đi sau này. Khu vực này là vùng có lớp mỡ đặc, nên sẽ khó khăn trong việc hút và thường gây ra biến chứng chảy máu. Tuy nhiên chúng vẫn thường được sử dụng vì lớp da ở đây mỏng nên ít để lại những bất thường sau hút mỡ. Chúng ta cũng không được quên vùng thắt lưng và trên xương cùng. Đây là khu vực chuyển tiếp giữa lưng và mông. Có thể can thiệp vào các khu vực này thông qua đường rạch qua nếp liên mông. Nên tránh hút quá nhiều chất béo ở khu vực này, vì sau đó có nguy cơ để lại những bất thường không mong muốn. Chúng ta cũng cần xem xét khi can thiệp chúng vì nguy cơ chảy máu và bướu huyết thanh ở đây là tương đối cao. Sau khi hút nên để hở không khâu đường rạch và đặt vào đó một ống dẫn lưu nhỏ. Liên quan khung mông và hình

Nếp lằn mông và vùng đùi sau

Nếp lắn mông là khu vực ít được chú ý đến, và do đó ít được sửa chữa cho thỏa đáng. Trong nhiều năm trở lại đây, người ta cho rằng khu vực này nên được chú

Liên quan khung mông và hình CHIếU Của mông

màu da (da trông như vân đá) rất khó sửa chữa. Khu vực tiêm mỡ sẽ là khu cần có độ dày lớn nhất, nhưng vẫn phải giữ được tính cân đối với các khu vực xung quanh.

trọng nhiều hơn vì họ phát hiện ra hình chiếu của mông phụ thuộc một phần vào nó. Nói chung, nếp lằn mông nên là một đường ngắn, giới hạn bởi đường thắng đi qua giữa mông. Một nếp lằn mông quá dài sẽ làm ảnh hưởng xấu đến kiến trúc vùng, tạo thành khung mông vuông hoặc hình V.

Vùng chuyển tiếp

Tuy nhiên việc chỉnh sửa khu vực này lại là một thách thức khá lớn, và nói chung, cần phải tiêm mỡ từ vùng trung tâm mông ra phía đùi để mông đầy hơn, từ đó rút ngắn chiều dài nếp lằn này. ở những bệnh nhân có mông ở phía dưới trong kém thon gọn hoặc lồi lõm, có thể cần phải hút mỡ hoặc thậm chí cắt bỏ vùng này để tạo hình nếp lằn mông. Chỉ định duy nhất để hút mỡ phía dưới mông là tình trạng bất thường kiểu cuộn chuối. Khu vực này nên được điều trị bảo tồn bằng cách hút mỡ lớp nông để điều chỉnh lại.

Một vấn đề quan trọng nữa trong chuyển mỡ mông là nên nắm được đâu là vị trí cần hút/ cần nâng Mặc dù có những vùng nên có lớp mỡ mỏng nhưng có những vùng, ví dụ như mông, cần lượng mỡ dày để trông thẩm mỹ hơn. Một ví dụ điển hình là vùng thắt lưng. Đây là vùng quan trọng, giao thoa giữa vùng hông eo và mông trên, nên phải căn chỉnh sao cho tạo được một vùng chuyển tiếp liên tục, tiếp nối hai khu vực một cách mềm mại. Các Bác sĩ nên tính toán để khi lượng mỡ hấp thu (thường là 50%) hết thì để lại một vùng chuyển tiếp đẹp, với tính thẩm mỹ cao. Tuy nhiên một số trường hợp thì lại yêu cầu một vùng chuyển tiếp đột ngột giữa eo và mông trên. Nhưng dù với trường hợp nào, cũng cần phải xác định rõ khu vực nào cần vùng chuyển tiếp mềm mại, khu vực nào có thể chuyển tiếp đột ngột được để đảm bảo tính thẩm mỹ. Nói chung, quá trình chuyển tiếp này được xác định bới các cấu trúc phía dưới (chi dưới), nên những vùng cơ vận động nhiều cần có 1 vùng chuyển tiếp mềm mại.

Mốc giải phẫu quan trọng và độ dày lớp mỡ

Độ dày lớp mỡ dưới da quyết định xem vùng nào phù hợp để hút mỡ. Vùng xương cùng thông thường lớp mỡ không được dày quá 1cm khi làm nghiệm pháp véo da. Ở khu vực hai bên, nơi da dày hơn, có thể hút mỡ để duy trì độ dày lớp mỡ dưới da còn khoảng 1,5 – 2 cm. Hút mỡ quá nhiều ở vùng này (xuống dưới 1cm) thường để lại các bất thường hoặc thay đổi

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

LIPOFILLER HỆ THỐNG

vùng chuyển tiếp một đường liên tục, mềm mại. Đồng thời không nên chuyển quá nhiều mỡ vào điểm hình chiếu. Đối với mông người Mỹ Laitn hoặc Mỹ gốc Phi thì sẽ yêu cầu nhiều mô mỡ hơn ở vị trí 1/3 giữa mông hoặc mông dưới.

Hệ thống hóa quá trình tiêm mỡ bắt đầu từ dưới lên trên, từ sâu đến nông. Cách tiếp cận này sẽ giúp tạo hình mông đồng thời nâng vùng mông trên lên đáng kể. Chúng tôi đề xuất thứ tự này khi thực hiện tiêm chất béo: nếp lắn mông, điểm hình chiếu và khung mông, vùng chuyển tiếp, nền mông và các điểm định dạng hình chiếu.

Vùng chuyển tiếp

Nếp lằn mông

Vùng chuyển tiếp giữa khu- ng mông và thể tích mông sẽ giúp đạt được ngoại hình mượt mà hơn. Cách tiếp cận này cho phép các khu vực lưng, eo, hông, mông hợp nhất lại thành một khối tự nhiên nhất có thể.

Nên mông

Tiêm mỡ vào vùng này không những giúp có được một vòng mông rộng hơn khi ngồi mà còn giúp đẩy mông lên cao hơn một chút bằng tác động cơ học. Ngoài ra, điều trị đầy đủ và tiêm đủ lượng mỡ sẽ giúp nếp lằn mông ngắn hơn và chếch xuống nhiều hơn, tạo tính thẩm mỹ vùng.

Chất béo cũng cần được đặt vào các mặt phẳng sâu. Điều quan trọng là phải tránh đưa vào khu vực chứa các mạch máu thần kinh quan trọng, đề phòng biến chứng huyết tắc mỡ. Trong bước này, chúng ta có thể định hình chiều rộng cũng như độ dày của mông, đồng thời cũng có thể kéo mông dài (lên phía trên) 1 chút.

Điểm nhô cao nhất và khung mông

Định dạng mông và điểm hình chiếu

Điểm hình chiếu (nhô cao nhất) là rất quan trọng vì chúng giúp tạo đường bờ mông. Điều trị đúng cách sẽ giúp chuyển dạng khung từ hình chữ V hoặc vuông về Dạng chữ A. Xác định điểm hình chiếu dự tính là khâu quan trọng vì vị trí này có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố xung quanh và mục tiêu thẩm mỹ đã định trước đó. Ví dụ một người với vùng mông ‘thể thao nên có nhiều mô mỡ hơn ở vùng mông trên để có một tạo với

Khu vực tiêm mỡ cuối cùng là phần nông nhất của mông, với mục tiêu định dạng và tạo hình chiếu. Chúng ta phải xác định được đâu là điểm tốt nhất để đặt điểm hình chiếu, từ đó tiêm mỡ làm đầy khu vực này. Vùng này thường

tương ứng với đoạn 1/3 giữa mông hoặc ngang với xương mu.

CHĂM SÓC HẬU PHẨU, BIẾN CHỨNG TIỀM TÀNG VÀ CÁCH XỬ TRÍ

tạng. Biến chứng muộn (3-21 ngày) có thể bao gồm chảy máu, huyết tắc mỡ, thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, thuyên tắc phổi, nhiễm khu- ấn, phù nề, bướu huyết thanh, và hoại tử mỡ. Di chứng (sau 21 ngày) là tình trạng bất đối xứng, các điểm lồi lõm bất thường, mất cảm giác, bướu huyết thanh và huyết tắc mỡ Trong chuỗi nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã thực hiện hơn 1000 ca phẫu thuật, và chúng tôi đã sớm có biến chứng xảy ra trong 3 ngày đầu tiên, là 2% số bệnh nhân được phẫu thuật bị chảy máu. Chúng tôi có 2 bệnh nhân bị hội chứng thuyên tắc mỡ, bắt đầu 48 giờ sau khi phẫu thuật và được giải quyết trong phòng chăm sóc đặc biệt mà không có vấn đề gì lớn. Chứng mediate ngay lập tức xuất hiện từ 3 đến 21 ngày sau phẫu thuật là chảy máu 0,5%, huyết khối tĩnh mạch sâu 0,1%, và huyết thanh 2% ở vùng hút mỡ thắt lưng. Các thay đổi xảy ra sau 21 ngày là bất thường (3%), không đối xứng (2%), hoại tử mỡ (1%) và huyết thanh (1%).

Sau phẫu thuật, sử dụng các loại băng ép lên vùng vừa tiêm, đặc biệt ở vùng xương cùng. Bệnh nhân được đưa tới phòng hồi sức và sau đó được đưa về buồng ở tư thế nằm nghiêng. Bệnh nhân được cho ra viện vào ngày hôm sau, sau khi được băng ép và mặc quần áo bó. Họ sẽ được kê giảm đau và kháng sinh phổ rộng trong vòng 5 ngày sau phẫu thuật. Bệnh nhân được khuyên nên đi lại sớm để tránh thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Cũng cần phải xác nhận rằng bệnh nhân không bị thiếu dịch thể, để giảm thiểu tối đa nguy cơ huyết khối. Họ cũng nên tắm hàng ngày, sau khi tắm xong nên bôi thuốc sát trùng vết mổ, sau đó dùng gạc vô trùng và băng lại, làm vậy liên tục trong 1 tuần. Đánh giá bệnh nhân qua thang điểm Caprini để quyết định xem họ có cần các loại kháng sinh/sát trùng tại chỗ đặc biệt nào hay không. Một tuần sau phẫu thuật, bệnh nhân mới nên mặc các loại băng nịt. Sở dĩ không đeo băng nịt ngay từ đầu vì quá trình viêm phù nề có thể dẫn tới hoại tử vùng mô ghép. Chúng tôi không khuyến khích massage trong tháng đầu tiên sau phẫu thuật. Biến chứng sớm (3 ngày đầu) có thể gặp là chảy máu, thuyên tắc mỡ hoàn toàn, thủng lá 172

PHỤC HỒI CHỨC NĂNG

Trong 7 ngày đầu, khuyến cáo sớm tập vận động tại nhà. Bắt đầu từ tuần thứ hai, nên thực hiện phục hồi chức năng bằng siêu âm trị liệu 3 lần một tuần. Phương pháp điều trị này được chỉ định trên các khu vực được hút mỡ và tránh ở các khu vực ghép mỡ. Nên hoạt động bình thường trở lại trong

Chương 9: Tạo hình bờ mông theo quan điểm hiện đại: lipofiller hệ thống

khoảng từ tuần thứ hai đến thứ ba, và tập thể dục nhịp điệu được khu- yến khích bắt đầu từ tuần thứ tư.

4. Morley-Forster PK. Uninten- tional hypothermia in the oper- ating room. Can Anaesth Soc J 1986;33(4):515-27.

KẾT QUẢ

5. Centeno RF, Young VL. Clinical anatomy in aesthetic gluteal body contouring surgery. Clin Plast Surg 2006;33(3):347-58.

Nói chung, kết quả có thể thấy được ngay trong vài tuần đầu tiên sau phẫu thuật. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng phải được đánh giá sau 3 tháng và là vĩnh viễn nếu bệnh nhân duy trì thói quen ăn uống phù hợp.

6. Wall SH, Lee MR. Separation, as- piration, and fat equalization. Plast Reconstr Surg 2016;138(6):1192- 201.

7. Mendieta CG. Gluteoplasty. Aes- thet Surg J 2003;23(6):441-55.

TỔNG KẾT

8. Roberts TL, Weinfeld AB, Brun- er TW, et al. “Universal” and eth- nic ideals of beautiful buttocks are best obtained by autologous micro fat grafting and liposuction. Clin Plast Surg 2006;33(3):371-94.

Ghép mỡ vùng mông được thực hiện một cách hệ thống hóa, tuân theo các quy trình được thiết kế sẵn để hút và chuyển mỡ sang các vùng khác, sẽ giúp đạt được kết quả tốt và hạn chế biến chứng. Cách tiếp cận này giúp đảm bảo mức độ hài lòng cao cho cả Bác sĩ phẫu thuật và bệnh nhân.

9. Wong WW, Motakef S, Lin Y, et al. Redefining the ideal buttocks: a population analysis. Plast Reconstr Surg 2016;137(6):1739-47.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

10. Singh D. Universal allure of the hourglass figure: an evolu- tionary theory of female physi- cal attractiveness. Clin Plast Surg 2006;33(3):359-70.

1. Toledo LS. Gluteal augmen- tation with fat grafting the Bra- zilian buttock technique: 30 years’ experience. Clin Plast Surg 2015;42(2):253-61.

11. Kirwan L. Three-dimensional liposculpture of the iliac crest and lateral thigh. Aesthet Surg J 1997; 17(5):334-6.

12. Hoyos AE, Prendergast PM. High definition body sculpting. 2014. https://doi.org/10.1007/978-3- 642- 54891-8.

2. Mendieta CG. Gluteal reshaping. Aesthet Surg J 2007;27(6):641-55. 3. Lee El, Roberts TL, Bruner TW. Ethnic considerations in but- tock aesthetics. Semin Plast Surg 2009;23(3):232-43.

13. Singh D, Dixson BJ, Jessop TS, et al. Cross-cultural consensus for waist-hip ratio and women’s at- tractiveness. Evol Hum Behav

Tác giả

WP2Social Auto Publish Powered By : XYZScripts.com
Scroll to Top