11
Joseph P. Hunstad, MD, Mark A. Daniels, MD,John C. Crantford, MD* TỪ KHÓA
• Nâng mông • Tạo hình mông bằng kỹ thuật purse-string • Sa mông • Giảm cân lượng lớn
ĐIỂM QUAN TRỌNG
• Bệnh nhân lý tưởng cho kỹ thuật này là những người có vùng mông sa và dẹt, mong muốn cải thiện điểm hình chiếu.
• Thực chất kỹ thuật này là sự kết hợp giữa nâng mông và làm đầy bằng vật liệu tự thân nhưng không gây tổn thương mô tham gia vào quá trình làm đầy, bảo tồn toàn bộ hệ thống mạch máu thần kinh và sử dụng mũi khâu purse-string để cải thiện hình chiếu của mông.
• Kỹ thuật purse-string an toàn và hiệu quả trong việc điều trị sa và teo mông.
GIỚI THIỆU
Teo và sa mông sau khi giảm cân lượng lớn hoặc thứ phát do lão hóa là vấn đề thường gặp của nhiều bệnh nhân. Được mô tả lần đầu tiên vào năm 2009, phẫu thuật tạo hình mông kiểu purse-string là một giải pháp thay thế cho các phương pháp nâng mông bằng mỡ tự thân sẵn có trước đó. Nâng mông tự thân bằng ghép mỡ đã được một số tác giả mô tả kỹ nên sẽ không đề cập lại trong bài này. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy các phương pháp trước dây đều có khâu bóc tách, xoay vạt hoặc tạo vạt cuống hẹp. Vạt xoay, về mặt lý thuyết là các vạt trục được cấp
máu bởi một mạch lớn đi dọc theo trục của vạt, nhưng trên thực tế thường là mạch ngẫu nhiên nuôi và do đó hay xảy ra tình trạng thiếu máu và hoại tử đầu vạt. Phương pháp chỉnh hình mông kiểu purse- string thuộc hệ thống các phương pháp nâng mông bằng vật liệu tự thân áp dụng ở những bệnh nhân có đủ lượng mô mềm để nâng vùng mông bị teo mà không làm căng da, căng vết mổ. Quy trình này đã được chứng minh là cải thiện đáng kể kết quả so với phương pháp loại bỏ da thừa .Sau đó mới nâng mông – một phương pháp giúp nâng mông tốt
Chương 11: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật Purse-String
nhưng không giúp làm đầy chúng.
trình này không dành riêng cho những bệnh nhân sau giảm cân lượng lớn! Những bệnh nhân bị teo và sa mông thường là những ứng cử viên tuyệt vời cho phẫu thuật này.
Kỹ thuật purse-string được phát triển dựa trên những kết quả không khả quan khi dùng vạt xoay. Quy trình này không liên quan đến việc phá hoại hoặc xoay mô làm đầy, do đó đơn giản hóa quy trình và cải thiện kết quả rõ rệt. Hơn nữa, kỹ thuật này có điểm ưu việt mà không phương pháp nào có được, là việc bảo tôn tối đa mạch máu nuôi. Mũi khâu purse-string cũng giúp tạo hình và cải thiện điểm hình chiếu của mông. Quy trình này có thể được thực hiện như 1 phẫu thuật riêng biệt hoặc kết hợp với tạo hình thành bụng hoặc nâng các bộ phận trên cơ thể.
Bệnh nhân phải được kiểm tra và quản lý các bệnh mạn tính trước khi xác nhận đủ sức khỏe để tham gia phẫu thuật tạo hình cơ thể, đặc biệt là hệ thống hô hấp và tim mạch. Việc cai nghiện thuốc lá dường như là bắt buộc trong ít nhất 6 tuần trước khi thực hiện phẫu thuật, cho tới khi vết mổ liền sẹo hoàn toàn. Thận trọng khi chỉ định phẫu thuật này ở bệnh nhân tiểu đường hoặc có bệnh lý mạch máu. Tuy phẫu thuật này ít gây chảy máu nhưng vẫn nên kiểm tra công thức máu cũng như tình trạng đông máu của bệnh nhân trước, như một liệu pháp thường quy.
Với tình trạng gia tăng số người béo phì cũng như sự phát triển của các phẫu thuật giảm cân đã dẫn tới tăng nhu câu tạo hình cơ thể sau giảm cân. Căng thẳng tâm lý nghiêm trọng do các dị tật để lại sau giảm cân lượng lớn cũng có thế thấy ở những bệnh nhân này. Các báo cáo cho thấy, bệnh nhân sẽ hài lòng hơn đối với các phẫu thuật nâng mông có bằng vật liệu tự thân làm đầy so với nâng mông đơn thuân. Kỹ thuật purse-string (dây rút) giúp cải thiện sự hài lòng của bệnh nhân.
Trong quá trình thảo luận, bệnh nhân thường mô tả kỳ vọng của họ bằng cách cầm tay kéo phần mông lên đúng vị trí họ muốn. Họ cũng muốn hỏi xem liệu có cần ghép mỡ hoặc implant mông hay không. Bệnh nhân giảm cân lượng lớn lại thường yêu cầu cắt bỏ lượng da thừa để tránh xệ và có thể đem lại hiệu quả cao sau các kỹ thuật nâng mông. Tuy nhiên những bệnh nhân giảm cân lượng lớn này lại ít khi có đủ mỡ cho việc ghép cũng như che phủ khối implant. Lúc này, kỹ thuật purse-string mới có cơ hội để chứng minh tính ưu việt của mình.
Đối tượng lý tưởng cho phẫu thuật này là bệnh nhân có vùng da và mô mềm vùng thắt lưng/mông dư thừa nhưng mông dẹt và gần như không có điểm hình chiếu. Tiêu chuẩn này có thể được xác định bằng cách dùng hai tay sờ và véo da đồng thời (Hình 2). Quy


Hình. 1. Đường dưới xuất phát từ mấu chuyển lớn tới xương cụt, là đường chứa điểm hình chiếu (điểm mông nhô ra phía sau nhiều nhất).
MÔ TẢ KỸ THUẬT
do đó ảnh hưởng xấu tới kết quả thẩm mỹ sau này.
Bệnh nhân được đánh dấu vùng phẫu thuật ở tư thế đứng. Điểm hình chiếu của mông được xác định, như cách mà tác giả Cen- teno và Mendieta đã mô tả, là điểm thuộc đường đi từ mấu chuyển tới xương cụt. Đường này xác định điểm hình chiếu của mông sau phẫu thuật.
Đế giải quyết vấn đề này, chúng tôi thường yêu cầu bệnh nhân hơi nghiêng người về phía đối diện khi chúng tôi thực hiện nghiệm pháp và đánh dấu ngay lúc đó, bên đối diện cũng được thực hiện tương tự. Tiếp tục đứng ở phía sau bệnh nhân và thực hiện nghiệm pháp tương tự để đánh dấu đường rạch da ở phía mông (Hình 3). Phần mô cạnh đường giữa thường dính chặt hơn với tổ chức phía dưới, nên sẽ lấy được ít tổ chức. Sau đó, cân chỉnh lại đường vẽ phía sau và hai bên để tạo thành một chuỗi đường liên tục. Phần được đánh dấu vừa rồi là phần sẽ rạch da và sau đó khâu nối bằng các mũi purse-string. Có thể dễ dàng thấy được khi nhìn từ phía sau thì phần tổ chức cần cắt bỏ sẽ có dạng cánh bướm, đóng vai trò như môt khu vực để neo giữ
Bằng cách sờ và véo da đồng thời bằng hai tay (hình 2) ở vị trí đường nách giữa, chúng ta đánh dấu phần da tiếp xúc với ngón trỏ và ngón cái, nối chúng với nhau tạo thành 2 đường. Hai đường này chính là hai đường mổ sau này. Tuy nhiên khi Bác sĩ thực hiện, bệnh nhân thường có xu hướng ‘hỗ trợ’ chúng ta, và vô tình nghiêng người về phía đó, khiến lượng mô chúng ta véo được nhiều hơn mức thực tế
Chương 11: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật Purse-String


Hình. 2. Nghiệm pháp véo da bằng hai tay được thực hiện ở đường nách trước. Để bệnh nhân nghiêng người sang bên đối diện để tránh cắt đi quá nhiều mô.
cần chờ tới khi vết mổ lành hắn mới có thể sửa chữa.
mô làm đầy bằng vật liệu tự thân để tránh chúng di lệch sang hai bên (Hình 4).
Đường rạch cạnh bên cơ thế sẽ bắt nguồn từ mặt ngoài của mô tạo hình kiểu purse-string chạy ra ngoài ra trước tới vị trí giao thoa của đường nách trước với đường đánh dấu trước đó, đường rạch sâu tới lớp cân cơ.
Đối với những người mới bắt đầu thực hiện kỹ thuật này, nên rạch đường lùi vào 1 cm so với đường đã đánh dấu để tránh khi khâu nối, đường khâu quá căng hoặc thậm chí là không đóng được. Khi đã có kinh nghiệm thực hiện rồi thì có thể thực hiện các đường rạch chính tại vị trí đánh dấu.
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm sấp sau khi đã gây mê. Các điểm đã đánh dấu phải được kiểm tra một lần nữa để tránh cắt quá mức. Điều này có thể dẫn tới khi đóng vết mổ, chúng ta thậm chí không thể đóng lại được hoặc đóng nhưng vết mổ quá căng, dẫn tới biến chứng đáng sợ nhất khi thực hiện thủ thuật là tình trạng chảy máu lượng lớn. Vết mổ sẽ mất một khoảng thời gian khá dài để liền hoàn toàn, và còn dài hơn nếu vết mổ căng, hai mép da không dính vào nhau. Nếu có sẹo xấu sau mổ,
Sau khi đã thống nhất vị trí rạch, tiêm tê tại chỗ bằng dung dịch lido-epinephrine loãng. Khu vực được khoanh tròn (màu tím trong hình 4) cũng được tiêm tê bê mặt để tạo thuận cho quá trình khử biểu mô (lọc lớp da bề mặt). Ở vị trí bên trên và dưới, nơi phải rạch da sâu hơn thì nên tiêm tê các lớp sâu hơn để tránh chảy máu. Các đường rạch này nên được thực hiện bằng dao số 10 ở lớp da và dao điện ở lớp dưới để cầm máu. Mô trung tâm để tạo hình (phần được giữ lại


Hình. 3. Nghiệm pháp tiếp tục được thực hiện ở vùng mông để đánh dấu đường rạch da.
Hệ thống cân nông có thế được đánh dấu sau khi đã bộc lộ để xác định dễ dàng hơn, đồng thời các đường khâu cũng chính xác hơn. Sau đó dùng chỉ Mersilene số 1 khâu lớp cân nông lại với nhau và siết chặt chỉ để tạo thành một khối hình cầu (Hình 6). Kết quả thu được sẽ tương tự như khi bệnh nhân được đặt một khối implant cỡ lớn, với điểm hình chiếu tốt (Hình 7). Sau đó chúng được neo vào lớp cân nông phía trong (cạnh xương cùng) đã được bảo tôn trước đó. Lúc này có thể dùng chỉ Mersiline 3 (Hình 8). Cho tới nay không ghi nhận một trường hợp ứ máu hay tắc nghẽn ở tĩnh mạch vùng mô trung tâm nào.
ở hình 5) được khử biểu mô bằng dao tay hoặc dao điện để bộc lộ tới phần cân nông. Phần ranh giới của mô trung tâm này được bóc tách tới lớp cân cơ, làm chúng bị cô lập với các tổ chức xung quanh. Sau đó sử dụng mũi purse-string khâu đính phần cân nông lại với nhau rồi thít chặt chỉ để hình thành nên một đảo chứa các tổ chức dưới da, cân cơ (Hình 6), đồng thời bảo tồn được toàn bộ mạch máu thần kinh phía bên dưới. Chúng ta có thể thấy kỹ thuật này không phá hủy mô quá nhiều, đồng thời có thế sử dụng chính tổ chức dưới da đế tạo ra điểm hình chiếu thẩm mỹ cho mông. Mũi khâu dây rút cũng rất hữu hiệu ở đây vì chúng giúp co các mối chỉ cùng nhau, từ đó dồn và đẩy mô trung tâm lên thành một khối hình cầu, như đang sử dụng một khối implant vậy!
Chương 11: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật Purse-String


Hình. 4. Đánh dâu trước phâu thuật. Khu vực khoanh tròn màu tím chính là vùng được làm đầy bằng vật liệu tự thân bằng mô tự thân. Cần đánh dấu khi bệnh nhân đứng do da bệnh nhân rất chùng.


Hình. 5. Khử biểu mô vạt mông. Ở vùng ranh giới tiến hành bóc tách sâu tới lớp cân sâu, bảo tồn các tổ chức mạch máu thần kinh. Da chỉ được khử lớp biểu mô để bảo tồn thể tích và tạo ra một mỏ neo vững chắc cho đường giữa.


Hình. 6. Đặt các mối khâu purse-string (như khâu túi dây rút) ở lớp cân nông. Mersilene 1 hoặc tương đương được sử dụng trong khâu này, chỉ khâu phải lướt dễ dàng qua các tổ chức.


Hình. 7. Chỉ khâu được đảm bảo thắt chặt với khoảng 6 nút thắt. Sau khi thít chỉ thì trông mô trung tâm sẽ nhô ra nhiều hơn, là cơ sở để tạo ra điểm hình chiếu sau này.
Chương 11: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật Purse-String


Hình. 8. Các tố chức xung quanh mô trung tâm được neo vào chúng. Cũng có thể sử dụng các mối chỉ như mối purse-string để đính mô trung tâm. Việc cố định này rất quan trọng nhằm ngăn ngừa sự dịch chuyển sang bên của mô trung tâm. Tuy nhiên điều quan trọng là phải bảo tồn được lớp cân nông ở mô trung tâm để có thể hình thành 1 mỏ neo vững chắc cho mô xung quanh.
thì cơ bản đều không để lại vết tích đường khâu đáng kể.
Một túi bao bọc mô trung tâm được tạo ra dựa trên kích thước vùng vừa khâu purse-string. Túi này được đính ngang với lớp cân nông vùng mông (Hình 9). Chúng sẽ được kiểm tra thường xuyên để luôn ôm sát khối mô trung tâm.
Sau phẫu thuật cần băng lại vết mổ, dùng loại băng dài khoảng 1 inch. Băng này sẽ được tách thành nhiều sợi nhỏ chiều rộng khoảng 3-4 cm (nhưng hai đầu dây không tách rời, tức vẫn là 1 dải băng lớn được tách nhỏ ra) nhằm có thể mở rộng dải băng, Đồng thời hạn chế lực ép vì nguy cơ tụ máu và tăng sắc tố sau phẫu thuật. Không sử dụng các loại băng ép vì chúng có thể ép làm tách đôi vết mổ. Sau phẫu thuật, chúng tôi cho bệnh nhân ngồi nhẹ nhàng trên gối hoặc đệm mềm, nằm nghiêng. Vùng phẫu thuật được kiểm tra thường xuyên trong thời gian chăm sóc hậu phẫu để đảm bảo vết thương lành
Sau phẫu thuật không nên đóng ngay mà nên dùng ghim da, ghim tạm thời vết mổ lại. Sau đó dùng chỉ khâu vicryl số 0 hoặc số 1 khâu gá lớp cân nông bằng các mối rời để kéo hai mép da lại gần với nhau. Sau đó đóng lớp hạ bì bằng chỉ vicryl 2-0, lớp biểu bì bằng chỉ monocryl 4-0. Ngoài ra, để đảm bảo không bị tách vết mổ, nên khâu da bổ sung thêm bằng một sợi prolene 3-0 mối rời (Hình 10). Mặc dù khâu nhiều loại và nhiều lớp chỉ như vậy nhưng sau khoảng 4-5 ngày cắt chỉ


Hình. 9. Một túi được tạo ra theo đúng kích thước phần mô trung tâm đã khâu lại. Điều đặc biệt là chúng được làm từ chính tổ chức dưới da vừa khử biểu mô của mô trung tâm.


Hình. 10. Đóng da (dog ear đã được tháo ra sau phẫu thuật tạo hình thành bụng). Đóng da qua ba lớp, sử dụng chỉ Vicryl đóng lớp cân nông để hạn chế tình trạng căng khi đóng da. Trước khi đóng da, đặt một dẫn lưu ở khu vực lưng dưới để dẫn dịch cho cả 2 túi.
Chương 11: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật Purse-String
đại. Những vết sẹo này có thể được điều trị bằng các thủ thuật sửa sẹo thông thường hoặc phẫu thuật cắt bỏ. Chúng tôi chưa từng gặp trường hợp nào bị nhiễm khuẩn hoặc hoại tử mỡ sau phẫu thuật. Bệnh nhân sau phẫu thuật đa số hài lòng với kết quả của mình. Sự gia tăng thể tích mông và dựng được điểm hình chiếu là những ưu điểm độc đáo mà phương pháp này mang lại so với kỹ thuật tạo hinh vùng mông kinh điển (Hình 11-13).
Chúng tôi đã thực hiện kỹ thuật này cho hơn 40 bệnh nhân, tính tới thời điểm hiện tại. Có thể nói, với bất kỳ quy trình tạo hình cơ thể nào, tình trạng nhão/ chùng da cũng sẽ xuất hiện sau một thời gian nhất định. Tuy nhiên, trong kỹ thuật này, điểm hình chiếu và gò mông được tạo ra vẫn đươc duy trì theo thời gian. Biển chứng thường gặp nhất là tách vết mổ và sẹo phì


Hình. 11. (A, B) Bệnh nhân nữ 59 tuổi với vùng da mông chùng và xệ. (C,D) Hai năm sau phẫu thuật tạo hình thành bụng và tạo hình mông bằng phương pháp purse-string.Bênh nhân này bị tách vết mổ, sau đó đã đươc điều tri liền seo










Hình. 12. (A, B) Bệnh nhân nữ 37 tuổi với vùng mông dẹt và xệ. (C,D) Tám tháng sau phẫu thuật tạo hình thành bụng và tạo hình mông bằng phương pháp purse- string .






Hình. 13. (A, B) Một bệnh nhân 62 tuổi với vùng mông xệ và hình chiếu không thẩm mỹ. (C,D) Sau phẫu thuật 16 tháng tạo hình mông bằng phương pháp purse-string (đã tao hình thành bung trước đó).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. Oranges CM, Tremp M, di Sum- ma PG, et al. Gluteal augmenta- tion techniques: a comprehensive literature review. Aesthet Surg J 2017;37(5): 560-9.
1. Hunstad JP, Repta R. Purse string gluteoplasty. Plast Reconstr Surg 2009;123:123e-5e.
2. Centeno RF. Autologous glu- teal augmentation. Clin Plast Surg 2006;33:479-96.
9. Kitzinger HB, Aayev S, Pitter- mann A. The prevalence of body contouring surgery after gas- tric bypass surgery. Obes Surg 2012;22:8-12.
3. Balague N, Combescure C, Huber O. Plastic surgery improves long- term weight control after bariat- ric surgery. Plast Reconstr Surg 2013;132:826-33.
10. Azin A, Zhou C, Jackson T, et al. Body contouring surgery after bar- iatric surgery: a study of cost as a barrier and impact on psychologi- cal well-being. Plast Reconstr Surg 2014;133: 776e-82e.
4. van der Beek ES, Geenen R, de Heer F. Quality of life long-term fol- lowing bariatric surgery: sustained improvement after 7 years. Plast Reconstr Surg 2012;130:1133-9. 5. Rohde C, Gerut Z. Augmentation buttock-pexy using autologous tis- sue following massive weight loss. Aesthet Surg J 2005;25:576-81.
11. Srivastava U, Rubin JP, Gusenoff JA. Lower body lift after massive weight loss: autoaugmentation versus no augmentation. Plast Re- constr Surg 2015;135: 762-72.
12. Hunstad JP, Aiken ME. Circum ferential body contouring. In: Aly A, editor. Body contouring after massive weight loss. Boca Raton (FL): CRC Press; 2006. p. 183-212. 13. Centeno RF, Mendieta CG, Young VL. Gluteal contouring surgery in the massive weight loss patient. Clin Plast Surg 2008;35:73-91.
6. Raposo-Amaral CE, Cetrulo CL, de Campos Guidi M. Bilateral lum- bar hip dermal fat rotation aps: a novel technique for autologous augmentation gluteoplasty. Plast Reconstr Surg 2006;117:1781-8. 7. Sozer SO, Francisco JA, Wolf C. Autoprosthesis buttock augmen- tation during lower body lift. Aes- thetic Plast Surg 2006;29:133-7.
Chương 12 : Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật xẻ tà
Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật xẻ tà 12
12
Sadri Ozan Sozer, MDa,*, Osman Erhan Eryilmaz, MDb
• Chia vạt cơ mông • Nâng mông bằng vật liệu tự thân • Ghép mỡ ĐIỂM QUAN TRỌNG
• Chia vạt cơ mông trong nâng mông là một trong những kỹ thuật nâng mông bằng vật liệu tự thân, có thể thay thế cho các phương pháp khác như ghép mỡ, implant mông và chuyển vạt mỡ da.
• Implant mông có tỉ lệ biến chứng thay đổi trong các nghiên cứu cũng như những khó khăn khi thực hiện.
• Ghép mỡ là kỹ thuật hiệu quả khi cần tăng thể tích vùng mông ở mức độ vừa phải.
• Vạt mỡ da bắt nguồn từ vùng mông trên và chúng chỉ giúp cải thiện kích thước vùng đó mà không thể kéo dài tới vùng trung tâm mông.
GIỚI THIỆU
hữu ích đối với bệnh nhân sa/xệ mông đồng thời muốn tăng kích thước vòng mông. Một số các loại vạt mỡ-da thường dùng nâng mông cũng sẽ được đề cập trong bài viết này. Hầu hết các vạt này bắt nguồn từ vùng mông trên và giúp cải thiện thể tích cũng ở vùng mông trên này, nên cơ bản không thể giải quyết sự thiếu hụt thể tích ở vùng mông giữa và dưới.
Gần đây, số lượng bệnh nhân tìm cách nâng mông và tạo hình bờ mông ngày càng nhiều. Implant mông đa được báo cáo là hay xuất hiện biến chứng và thường gặp khó khăn khi phẫu thuật. Còn ghép mỡ thì được coi là một phương pháp hiệu quả nếu bệnh nhân muốn cải thiện kích thước và làm đầy mông ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên cả hai kỹ thuật này đều không giải quyết được tình trạng xệ/ chùng da mông. Mặc dù kỹ thuật xẻ tà được mô tả dưới đây chủ yếu với mục đích giải quyết tình trạng thiếu hụt thể tích mông, nhưng chúng lại đặc biệt
MỤC TIÊU ĐIÊU TRỊ
Vật lý tưởng phải linh hoạt và được cấp máu đầy đủ, tạo được
độ săn chắc cho vùng mông trên và dựng được điểm hình chiếu ở phần giữa mông. Các vết sẹo sau phẫu thuật phải nằm trong các nếp tự nhiên hoặc có thể che bởi quần áo lót.
đồ lót. Sau đó, sử dụng nghiệm pháp véo da bằng hai tay để ước tính đường rạch da (hình 1C). Vạt được tạo ra nằm giữa hai đường rạch này, với khoảng 80% khối lượng là cơ mông lớn.
CHUẨN BỊ TRƯỚC PHẨU THUẬT
Đối với tình trạng sa mông, theo lý thuyết sẽ nâng mông lên trên và vào trong một đoạn ngắn. Vạt mông nằm trong giới hạn của hai đường rạch trên và dưới, bắt nguồn từ đoạn 2/3 trong bóc tách từ dưới lên trên. Mặt trong vạt được bóc tách phải cách đường giữa cơ thể đoạn 2-3 cm. Giới hạn bên ngoài của vạt là đoạn ¾ trong tính từ đường giữa cơ thể tới đường nách sau, và vạt có thể có chiều rộng từ 5-15 cm tùy thuộc vào mục đích phẫu thuật, đường bờ mông và kết quả mong muốn (Hình 1D). Tùy thuộc vào những bất thường đường bờ mông mà quyết định xem đâu sẽ là vị trí cần được hút mỡ (hai bên sườn, xương cùng, đùi sau,..đi lần lượt theo các đơn vị thẩm mỹ vùng mông) để đạt được đường cong mong muốn.
Vạt cơ mông được cấp máu bởi các động mạch xuyên bắt nguồn từ động mạch mông trên. Có khoảng 20-25 động mạch xuyên nuôi vùng mông trên, được tách từ hai động mạch mông trên và dưới, thuộc phân nhánh động mạch chậu trong. Do đó vùng mông trên được cấp máu tương đối dồi dào, việc tạo vạt ở đây sẽ không quá phức tạp. Chúng ta định nghĩa điểm giao của nếp lằn bẹn và đường nách giữa là điểm A (Hình 1A). Điểm trên cùng của nếp liên mông là điểm B (Hình 1B). Vẽ một đường cong lồi lên trên, đi từ điểm B đến điểm A. Tại vị trí xương cùng, vẽ đối xứng một đường ở bên đối diện, tạo thành hình chữ V. Sau phẫu thuật vết sẹo này sẽ hơi cong lên một chút, và có thể dễ dàng che chúng đi khi mặc
Chương 12: Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật xẻ tà








Hình. 1. Đánh dấu mốc giải phẫu quan trọng
TƯ THẾ BỆNH NHÂN
túi bao đã đặt trước đó bằng chỉ Quill 3-0 (chỉ khâu lớp cân nông với túi, không khâu cơ) (Hình 4).
Bệnh nhân ở tư thế nằm sấp, đặt một miếng đệm gel silicone dưới mào chậu hai bên để tránh loét điểm tì. Giữ bệnh nhân ở tư thế uốn cong thắt lưng để tạo thuận cho việc hút mỡ và nâng vạt.
Sau các bước chính có thế ghép mỡ đế cải thiện đường bò mông cũng như vùng chuyển tiếp đẻ có được đường cong mềm mại, liên tục.
TIẾP CẬN PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT
Việc đưa phần tổ chức dưới da đã được khử biểu mô đem ‘giấu’ vào trong vạt lật vừa giúp bảo vệ tổ chức, vừa giúp cho vạt có hình dạng tròn hơn, giống như một khối implant. Phần da mông ở phía dưới bây giờ được kéo lên để che phủ vạt. Sau đó bệnh nhân có thể nằm ngửa ngay để có thể thực hiện những thủ thuật khác nếu cân.
Phần da phía trên mông hình chêm đã đánh dấu trước đó được rạch ra, để lại lớp mỡ trên mặt sau xương cùng nhằm dẫn lưu bạch huyết. Vạt mông sẽ được đánh dấu vị trí sau khi đã rạch hai đường trên dưới, sau đó được khử biểu mô (hình 1D, 2A).
BIẾN CHỨNG VÀ QUẢN LÝ BIẾN CHỨNG
Vạt sẽ được bóc tách thẳng từ trên xuống lớp cân nông bằng các dụng cụ bóc tách sao cho đường bóc ở mặt trên, trong và ngoài thẳng góc với khối cơ ở dưới. Mặt dưới sẽ được bóc tách với một góc nghiêng (thay vì góc vuông như 3 mặt còn lại) cho tới lớp cân nông. Một túi bao được thiết kế để bọc phần vạt lại, ngay phía trên cân cơ mông lớn (Hình 2B) (Pocket for the flap ở hình 2A). Lớp cân ở mặt trên, trong và ngoài được chia tách nhau ra, sau đó tách một phần cơ mông lớn (chiều dài khoảng 5-6cm) ra đi cùng với phần tố chức dưới da đã được khử biểu mô trước đó, rồi thực hiện thao tác lật vạt lên trên (Hình 3).
Bằng cách tách đôi khối co mông lớn, tạo thuận cho việc lật vạt từ nửa dưới lên trên, đồng thời bảo tồn tối đa mạch cấp máu cho vạt so với các loại vạt khác (Bảng 1). Không ghi nhận trường hợp nào bị hoại tử toàn bộ vạt hoặc hoại tủ mỡ. Các tác giả không ghi nhận bất kỳ trường hợp xuất hiện khối máu tụ hoặc bướu huyết thanh nào sau phẫu thuật. Điều này có thể do sự đóng góp của một số yếu tố, bao gồm việc bảo tồn được hệ bạch huyết sau xương cùng, giảm thiểu các khoang tôn dư, băng ép sau phẫu thuật và sử dụng dẫn lưu. Cho đến nay, chỉ có 1 bệnh nhân phải điều trị chỉnh sửa lại vạt sau phẫu thuật.
Vạt được lật lên trên và bờ tự do của chúng được khâu nối vào 208
Chương 12 : Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật xẻ tà






Hình. 2. (A) Đường mổ từ trong ra ngoài. (B) Nâng cao da và tổ chức dưới da để đặt vạt.






Hình. 3. Lật vạt sau khi tách cơ.
Deepithelalized butlack. Hap
Superior insertion of Clubeus maximus divided and raiser
Gluteus media


Hình. 4. Cách xoay và cố định vạt.
Chương 12 : Chuyển vạt tự thân nâng mông: Kỹ thuật xẻ tà
Trong loạt bài đăng của tác giả, tổng cộng 400 ca đã được thực hiện. Trong đó khoảng 70% là bệnh nhân sau giảm cân lượng lớn và mong muốn đạt được ngoại hình đẹp hơn. Bệnh nhân đa số hài lòng sau phẫu thuật.
TỔNG KẾT


Các dấu hiệu chứng tỏ một kết quả thẩm mỹ toàn vẹn: điểm hình chiếu ở trung tâm của mông, ngang với vị trí xương mu. Ngoài ra, khả năng giải quyết tình trạng sa mông bằng cách nâng mông lên trên vào trong đồng thời rút ngắn nếp lằn mông đã được hầu hết các tác giả công nhận. Việc tách phần dưới vạt theo một góc xiên giúp cải thiện chiều dài và tầm với của vạt lên nửa mông trên, giúp hình thể của vạt gần giống với một khối im- plant hơn.
CHĂM SÓC HẬU PHẨU
Bệnh nhân nên vận động tại giường sớm sau phẫu thuật. Nên sử dụng các loại tất áp lực và quần áo bó để hạn chế biến chứng bướu huyết thanh. Dẫn lưu được rút ra khi thể tích dịch < 50 mL/24h.
Ưu điểm khác của loại vạt này là điểm gập khá linh động, nên có thể tính toán để dựng điểm hình chiếu của mông tại chính điểm gập đó, sao cho chúng nằm ở vị trí trung tâm của mông. Đồng thời, việc di chuyển các mô từ dưới lên trên giúp nâng 1 phần mông trên lên, đồng thời tạo đường chuyển tiếp liên tục với vùng mông giữa và thắt lưng. Chúng cũng làm cho vùng thắt lưng trông cong ra trước nhiều hơn (một cách tương đối) (Hình 5-8).
Các tác giả không khuyến cáo về tư thế cần duy trì sau phẫu thuật. Bệnh nhân có thể ngủ, nằm ở bất kỳ tư thế nào, thậm chí có thể ngồi được ngay sau phẫu thuật. Bệnh nhân có thể trở lại làm việc sau 10-15 ngày.
KẾT QUẢ LÂM SÀNG ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ






Hình. 5. Hình ảnh trước và sau phâu thuật, chứng minh sự cái thiện về hình dáng mông và loại bỏ đi những bất thường.






Hình. 6. Hình ảnh trước và sau phẫu thuật, khẳng định kết quả khả quan ở bệnh nhân có lượng mô mềm hạn chế.


Hình. 7. Hình ảnh trước và sau phẫu thuật của một bệnh nhân đã từng thực hiện tạo hình thành bụng trước đó, chứng tỏ sự linh hoạt của ký thuật này trong việc tùy chỉnh vị trí sẹo (cao/thấp).


Hình. 8. Hình ảnh trước và sau phẫu thuật của bệnh nhân mất chân phải, chứng minh khả năng phục hình của kỹ thuật này ở những bệnh nhân teo cơ mông trầm trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
4. Sozer SO, Agullo FJ, Palladino H. Spiral lift: medial and lateral thigh lift with buttock lift and aug- mentation. Aesthetic Plast Surg 2008;31:120-5.
1. Sozer SO, Agullo FJ, Palladino H. Split gluteal muscle flap for auto- prosthesis buttock augmentation. Plast Reconstr Surg 2012;129:766- 76.
5. Sozer SO, Erhan Eryilmaz O. Split gluteal muscle flap for autopros- thesis buttock augmentation. In: Strauch Berish, Vasconez LO, Her- man CK, et al, editors. Grabb’s ency- clopedia of flaps. 4th edition. Wolt- ers and Kluvert; 2016. p. 1533-6.
2. Sozer SO, Agullo FJ, Wolf C. Auto- prosthesis buttock augmentation during lower body lift. Aesthetic Plast Surg 2005;29:133-7 [discus- sion: 138-40].
3. Sozer SO, Agullo FJ, Palladino H. Autologous augmentation gluteo- plasty with a dermal fat flap. Aes- thet Surg J 2008;28:70-6.



